CÁCH XỬ LÝ ĐÁ MÀU CỦA THỢ KIM HOÀN – PHẦN 2

Viết bởi Wayne Emery

Tôi hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và tránh được sự bối rối. Chúng ta sẽ thảo luận về một số quy trình phổ biến trên bàn thợ bạc. Điều có thể dễ dàng dẫn đến sự hư hại cho đá màu, cũng như cách tránh rủi ro. Một vài cách thức bạn sẽ thấy khá quen thuộc. Một số sẽ hơi mới lạ và vài phương pháp vẫn còn gây tranh cãi. Cuối loạt bài viết này, tôi sẽ đưa ra một số hướng dẫn rõ ràng để giúp giải đáp các câu hỏi liên quan về đá màu.


Andalusite

Hiếm thấy trong những năm gần đây, Andalusite có thể xem là loại khoáng vật đẹp thực sự. Khi được cắt mài đúng cách, nó sẽ hiển thị hai tông màu cùng một lúc (pleochroism); Nếu hình dáng nó là oval dài, bạn sẽ thấy dãy màu xanh ô liu nhạt ở giữa và chuyển thành hồng đến nâu đỏ ở hai đầu. Với đặc tính đó, nó khá thú vị và luôn thu hút sự chú ý.

Được đặt theo tên địa danh, nơi nó được phát hiện lần đầu tiên, Andalusia (Tây Ban Nha). Nhưng Brazil là nguồn chính hiện nay, với một số đến từ Sri Lanka và Đông Phi. Hầu hết các viên đá quý được cắt đều nằm trong phạm vi 1 – 5 carat, với những viên đá đẹp trên 10 carat là khá hiếm.

Độ cứng 6,5 đến 7,5 trên thang Mohs, vì vậy nó khá cứng và hơi giòn. Chính vì vậy, bạn nên cẩn thận trong khi nhận hột. Nên tránh nhận hột theo kiểu Bezel (chấu bao).

Giá sỉ cho một đến ba carats từ 50 – 75 US cho mỗi carat chất lượng tốt. Và lên đến 90 US/carat cho phụ phí cắt mài. Khi có hàng, viên 5 – 10 carat dao động trong khoảng 27.5 US cho mỗi 5 carat.

Ngoài độ giòn nhẹ, Andalusite không quá khó khăn khi xử lý. Nhưng nên tránh nhiệt trực tiếp hoặc thay đổi nhiệt đột ngột. Acid chua và máy siêu âm làm sạch không là vấn đề.

Apatite

Khoảng mười năm trước, sự xuất hiện của Apatit xanh không được quan tâm như một viên đá dành cho trang sức. Các tinh thể màu vàng lớn từ Cerro Mercado, Mexico luôn được đặt hàng bởi các thợ cắt như tôi. Nhưng loại khoáng vật này khá hao trong việc cắt mài cho một viên Apatite đẹp và sáng. Độ cứng Mohs không vượt quá 5 và nó khá giòn. Nói chung, đây không phải là một đề cử tốt cho chiếc nhẫn. Nhưng sự phổ biến của vật liệu màu neon mới là không thể bỏ qua. Ngoài độ giòn của nó, Apatite rất nhạy cảm với nhiệt. Việc sử dụng ống giọt thợ kim hoàn và máy siêu âm là rủi ro nhất. Cần hết sức thận trọng khi nhận hột.

Bên cạnh màu xanh neon phổ biến hiện nay, Apatite có thể được tìm thấy với màu vàng trung bình, hồng nhạt, vàng lục, thậm chí là tím. Nhưng các loại sắc tố này rất hiếm. Apatite có bề mặt đẹp màu neon có giá bán sỉ trong phạm vi 150 – 178 US mỗi carat cho các kích cỡ 5 – 10 carat. Và chúng chủ yếu được bán cho người thu gom. Khi cắt mài tốt nó là một loại đá đẹp và trực quan. Hàng dưới 3 carat thường có sẵn và có giá dưới 85 US mỗi carat.

Aquamarine

Aquamarine là loại khoáng chất có dãy màu từ xanh đến xanh lục của Beryl. Nó có thể dao động từ màu xanh rất nhạt đến màu xanh lam khá đậm hoặc màu xanh lục. Aquamarine hầu như luôn được xử lý nhiệt, đôi khi tại khu vực khai thác, nhưng thường là sau khi cắt. Việc xử lý nhằm để loại bỏ thành phần màu xanh lục hoặc hơi vàng, cho màu xanh lam thuần khiết và phổ biến hơn. Điều này đã được thực hiện từ rất lâu. Và những người mua trẻ tuổi hơn thường không biết Aquamarine có màu xanh lục tự nhiên. Tuy nhiên, sản vật không qua xử lý nhiệt luôn được các thợ cắt mài săn lùng. Bởi vì nó luôn được đánh giá cao bởi những người sành đá quý và thợ kim hoàn.

Brazil và Pakistan là những nhà sản xuất Aquamarine lớn. Aquamarine được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả Bắc Carolina và một số mẫu vật tuyệt vời đến từ Mt. Antero, Colorado. Chất liệu tốt nhất là màu xanh thuần khiết khá mạnh tương tự như màu xanh Topaz của London. Và nó được biết đến với cái tên “o’Santa Maria” (được đặt theo tên của địa phương ở Brazil). Nhưng rất tiếc, từ lâu nó đã biến mất khỏi thị trường. Nguồn cung cấp Aquamarine cao cấp nhất hiện nay là Mozambique. Vật liệu này được biết đến với tên là “Santa Maria Afrique”. Do nguồn cung rất hạn chế, nên loại khoáng vật này đã tăng gấp đôi giá trong vài tháng qua.

Sản vật hàng đầu của Brazil từ 3 đến 10 carat dao động từ 100 US đến 600 US mỗi carat. Và giá còn tùy thuộc vào cường độ màu sắc. Trong khi Santa Maria Afrique loại cắt mài đẹp dễ dàng lên đến 1000 US mỗi carat. Không có sự khác biệt về giá giữa đá quý được xử lý nhiệt và tự nhiên. Aquamarine, cùng với Tourmaline và Spinel, đã trở thành một trong những loại đá quý được đánh giá là tăng giá nhanh nhất.

Độ cứng của Aquamarine thường được ghi nhận là 7.5 đến 8. Nhưng một số viên đã được thử nghiệm và cho thấy là dưới 7. Vì vậy, hãy nên thận trọng với nó. Aquamarine không quá giòn, nhưng cũng nên tránh tiếp xúc với nhiệt. Bản thân chúng không nhạy cảm với nhiệt, nhưng nó có thể chứa các tạp chất, bọt khí ga hoặc các chất lỏng vô hình. Khi được nung nóng, chúng chuyển hóa thành khí và tạo hiện tượng giãn nở, có thể làm vỡ đá. Nếu nung nóng trên 450 độ C, Aquamarine có khả năng chuyển sang màu phấn trắng hoặc không màu. Siêu âm sẽ không vấn đề gì nếu bạn thận trọng không để viên đá bị sốc nhiệt do thay đổi đột ngột. Acid chua cũng sẽ không có vấn đề, nhưng đá nên được làm mát trước.

Người Nga đã thành công trong việc tạo ra Aquamarine tổng hợp. Khi giá của Aquamarine tự nhiên có màu đậm đẹp hơn tiếp tục tăng vọt. Chúng ta có thể hy vọng các loại vật liệu này sẽ xuất hiện nhiều hơn trên thị trường. Mặc dù giá của chất liệu tổng hợp luôn giữ trong khung giá chất lượng cao. Tôi thường thấy nó có giá từ 30 US/carat cho các viên có chất lượng cắt kém, bụng to. Và có giá đến 80 US/carat cho loại cắt đúng, loại đẹp có lửa trong các kích cỡ 3 – 7 carat. Chất liệu tổng hợp thường rất sạch nên nó chịu nhiệt tới 700 độ C, nhưng nó sẽ mất màu ở khoảng 500 độ. Vì vậy, tránh lửa ống giọt trực tiếp, hoặc hãy xem nó như loại tự nhiên khi làm việc.

Beryl

Khoáng sản Beryl cung cấp cho chúng ta các loại đá quý nhiều màu sắc đẹp nhất trong số đá màu. Chúng bao gồm Aquamarine (xanh dương đến xanh lục), Emerald  (các cường độ từ xanh lục trung bình đến đậm), Heliodor hoặc vàng beryl, Morganite (hồng đến đỏ tím nhạt), Hiddenite (xanh lá nhạt), Goshenite (không màu), và Bixbite hoặc Beryl đỏ cực kỳ hiếm. Hầu hết các dòng Beryl đều khá bền và không có vấn đề gì đặc biệt cần lưu ý với thợ kim hoàn. Ngoại trừ Emerald  hoặc các dòng khác (có thể khá nhiều) và mỗi loại sẽ được thảo luận riêng biệt. Nhưng luôn luôn phải tránh làm nóng hoặc làm lạnh cao, đột ngột với tất cả các dòng thuộc Beryl.

Chrome Diopside

Gần đây, viên đá xanh với cường độ màu sắc mạnh mẽ này khá hiếm trong đồ trang sức. Những khám phá gần đây ở Nga và Madagascar đã làm tăng tính khả dụng. Và qua các kênh mua sắm trên TV đang góp phần làm cho nó trở nên phổ biến hơn. Vì vậy chúng ta sẽ dần thấy những viên đá này ở bàn thợ bạc với tần suất ngày càng tăng. Các biến thể của Diopside có độ cứng từ khoảng 5.5 đến 7, và nó không giòn.

Diopside là loại đá quý có khả năng chịu nhiệt đáng kể. Nhưng việc làm nguội đột ngột là không nên. Quy trình siêu âm và Acid chua hiện không gây vấn đề gì.

Hầu hết các Chrome Diopside mà bạn có thể gặp sẽ dưới hai carat. Bởi vì những viên đá lớn hơn sẽ có sắc màu đen thay vì màu xanh lá cây. Bạn cũng có thể bắt gặp Diopside ở dạng khác, dưới dạng cabbon. Khoáng vật này có màu nâu vàng đến đen và có ánh sao bốn tia rất đẹp. Đôi khi nó bị nhầm lẫn với Sapphire sao đen, nhưng Sapphire sẽ có sáu tia chứ không phải bốn. Và các dòng khoáng vật có ánh sao KHÔNG nên làm nóng hoặc nguội đột ngột.

Diopside sao đen thường được giao dịch với giá trị thấp, chỉ vài US mỗi carat. Trong khi Chrome Diopside (màu xanh lá cây) cắt giác được bán với giá 30 – 75 US/carat ở ba kích cỡ. Và ở các kích cỡ nhỏ hơn thì ít hơn nhiều.

Chrysoberyl

Khoáng chất Chrysoberyl cung cấp cho chúng ta những viên đá quý tuyệt vời ở ba dạng riêng biệt. Đầu tiên, Alexandrite, sự thay đổi màu sắc đã được thảo luận ở trên.

Thứ hai là Cat’s-eye Chrysoberyl (mắt mèo); Loại hiếm nhất và đắt nhất trong số các loại đá quý có khả năng tạo ra hiện tượng mắt mèo. Hiện tượng mắt mèo, được các nhà đá quý gọi là chatoyancy. Chúng được tạo ra bởi cấu trúc bên trong của viên đá. Nó hình thành từ các tia sáng song song, hình kim hoặc tinh thể kéo dài của chính khoáng chất phản xạ với ánh sáng. Những tia phản xạ có thể nhìn thấy trong ánh sáng phản chiếu trên một bề mặt được đánh bóng phẳng. Với bề mặt cong hoặc cắt mo, nhìn vào tia mắt trên đá, kim càng mịn thì tia mắt càng đẹp. Với viên Chrysoberyl tốt nhất, tia mắt trên đá dường như phát sáng. Khi quay viên đá, bạn sẽ cảm thấy mắt như mở ra nhắm lại hoặc như là nháy mắt.

Sự thay đổi màu sắc sẽ từ vàng cam qua xanh lục và đến xám xanh. Cat’s eye Chrysoberyls hàng đầu với kích cỡ 3 đến 5 carats được bán với giá từ 1500 US đến 3500 US mỗi carat. Một số khác cũng cho thấy sự thay đổi màu sắc, đó là Cat’s-eye Alexandrite với giá rất cao.

Loại đá quý thứ ba của Chrysoberyl chỉ đơn giản là màu vàng lục trong suốt, thường thấy ở dạng bề mặt. Nó thường có màu vàng nhạt trung bình đến xanh ngã vàng. Nếu cắt đúng cách, nó sẽ rất rực rỡ và thường không có tạp chất bên trong. Nó mang độ cứng 8.5 khá cứng chung với dòng Chrysoberyl của nó. Điều cần lưu ý là tránh nóng hoặc làm nguội đột ngột. Ở khía cạnh khác, Chrysoberyl không có gì đáng ngại.

Citrine

Citrine là loại Thạch anh màu vàng. Màu sắc thực dao động từ một màu vàng rất nhạt qua màu vàng cam. Đến màu cam tốt nhất của Citrine Rio Grande, sang màu cam đỏ sẫm của Madeira. Và màu nâu đỏ của nhiều loại được gọi là Oxblood Citrine.

Nhiều thợ kim hoàn không trữ Citrine, nhưng loại màu vàng đậm và màu cam sáng không dễ tìm và hiếm khi gặp. Khi cắt theo các góc thích hợp và đánh bóng đúng cách, nó có vẻ đẹp đáng kinh ngạc. Và Citrine sẽ kết thành món trang sức đẹp với giá phải chăng.

Mặc dù một số Citrine hình thành trong tự nhiên, nhưng hầu hết là kết quả của việc đốt nóng Amethyst (Thạch anh tím). Nhiều thợ kim hoàn mới vào nghề đã có trải nghiệm đáng nhớ khi để lửa ống giọt quá gần với Amethyst hoặc Citrine. Và nó trở thành Thạch anh không màu, đương nhiên là sẽ gặp rắc rối khách hàng. Vì vậy, hãy chú ý nhiệt độ xung quanh Citrine và Amethyst. Không thay đổi nhiệt độ đột ngột, siêu âm hoặc acid chua sẽ không gây ra vấn đề gì.

Citrine màu vàng dao động từ một vài đô la mỗi cara cho hàng có ánh sáng cắt tự nhiên. Giá khoảng 70 US/carat khi nó gần với màu cam và được cắt, đánh bóng theo chuẩn yêu cầu. Loại có màu da cam đến đỏ cam dao động khoảng 20 US đến 80 US/carat cho đá cắt theo yêu cầu. Loại nguyên liệu này ngày càng khó tìm, vì nhu cầu Amethyst cho sản xuất mang lại giá cao hơn trong thị trường cắt theo yêu cầu.

Cả người Nga và Nhật Bản đều sản xuất một lượng lớn Citrine tổng hợp cho thị trường đá quý. Trên thực tế, chúng sản xuất Amethyst và nhiệt xử lý vật liệu giống như cách nó hình thành trong tự nhiên. Vật liệu Amethyst phản ứng bằng cách chuyển một số sắc tố từ vàng sang vàng cam đến nâu đỏ. Cũng giống như Amethyst, Citrine hình thành trong phòng thí nghiệm là mặt hàng có sẵn ở mọi nơi. Chúng có giá từ vài US mỗi carat đối với vật liệu màu vàng. Giác cắt tự nhiên lên đến 70 – 100 US mỗi carat cho đá cắt chính xác hoặc lõm. Trong đó người ta chủ yếu trả công cắt ở mức cao cho nghệ nhân lành nghề.

Vật liệu tổng hợp có khả năng chịu nhiệt khá cao. Nhưng có thể thay đổi thành vật liệu không màu do quá nóng và nó sẽ bị nứt vỡ nếu làm nguội đột ngột. Siêu âm có thể được sử dụng một cách an toàn, và acid chua không có tác dụng đối với nhóm Thạch anh.

Nguồn: Ganoksin và Sưu tầm

Những bài viết liên quan:

CÁCH XỬ LÝ ĐÁ MÀU CỦA THỢ KIM HOÀN - PHẦN 1

CÁCH XỬ LÝ ĐÁ MÀU CỦA THỢ KIM HOÀN - PHẦN 4

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *